Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

ĐẠI LỄ VU LAN BÁO HIẾU NĂM 2013

        Hôm nay, là ngày Đại lễ vu lan báo hiếu, cũng có nhiều quý bạn không có điều kiện hoặc vì lý do nào đó không thể đến chùa để dự lễ được. Vì vậy, chúng tôi gửi "Đại lễ vu lan" để quý bạn xem, nghe. Mong rằng quý bạn được thâm tâm an ổn, hiểu biết phật phấp, phát nguyện làm nhiều điều tốt, hồi hướng công đức cho cha mẹ nhiều đời, cha mẹ hiện tiền và tất cả người thân nhân ngày Lễ rằm tháng bảy- ngày xá tội vong nhân.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Video Lễ Vu Lan báo hiếu năm 2013;




Video Lễ Vu lan năm 2012



Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

MƯỜI CÔNG ĐỨC PHÓNG SANH


MƯỜI CÔNG ĐỨC PHÓNG SANH
(Có Video ở phía dưới đây để bạn có thể tự làm ở nhà)

1. Không có nạn đao binh, tránh được tai họa chiến tranh tàn sát;
2. Sống lâu, mạnh khỏe, ít bệnh;
3. Tránh được thiên tai, dịch họa không gặp các tai nạn;
4. Con cháu đông đúc, đời đời Hưng thạnh nối dõi không ngừng;
5. Chỗ mong cầu được toại nguyện;
6. Công việc làm ăn phát triển hưng thạnh gặp nhiều thuận lợi
7. Hợp lòng trời, thuận tánh Phật, loài vật cảm ơn, chư Phật hoan hỷ;
8. Giải trừ oán hận, các đều ác tiêu diệt, không có lo buồn sầu não;
9. Vui hưởng an lành, quanh năm đều được an ổn;
10. Tái sanh về cõi trời hưởng phước vô cùng, nếu có tu Tịnh Độ thì được vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Để hiểu rõ hơn mời quý vị, tịnh tâm  xem và nghe Video sau đây. Trước khi xem xin quý vị rửa tay, rửa mặt sạch sẽ để tỏ lòng thành kính Phật, loại bỏ tạp niệm trong tâm, bớt chút thời gian tập trung xem và nghe mới có kết quả.
Xin hồi hướng công đức này, nguyện cho người nào xem thấy, nghe thấy bài thuyết giảng : "Mười Công đức phóng sanh" của thầy Thích Giác Nhàn đều hiểu rõ, đều phát tâm bồ đề, phước đức, công đức vô lượng vô biên, tất cả đều vãng sanh về cõi tịnh độ. 
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
  

Nếu ta muốn phóng sanh thì phải làm sao:
    Nếu ta phóng sanh không thì ta chỉ có một chút phước đức mà thôi! Còn nếu như ta vừa phóng sanh vừa quy y cho chúng, để chúng được kết duyên lành với Phật pháp sau khi chúng mãn báo thân súc sinh nhờ công đức được quy y Tam Bảo mà được trở lại làm người và biết được Phật pháp để tu hành thì công đức và phước đức của chúng ta sẽ tăng lên vô lượng vô biên.

    Trong từ điển Phật học có nói: “Phóng sinh tức là giải thoát (thả) cho các sinh vật bị nhốt, giữ” và có nói: Ngày mùng một đầu năm nên phóng sinh.
Việc phóng sinh là thể hiện tâm từ bi, bình đẳng, tôn trọng Phật tính của tất cả các loài hữu tình. Chúng ta có thể phóng sinh được mọi lúc mọi nơi chứ không nhất thiết là phải mang đến chùa mới phóng sinh được và bất kể ai cũng phóng sinh được không phải là chỉ là người Phật tử đã quy y Tam bảo. Khi phóng sinh thì có nghi thức phóng sinh, cũng tùy theo thời gian, điều kiện, hoàn cảnh mà có thể theo nghi thức dài hoặc lược bớt, nhưng điều quan trọng là phải chú nguyện Quy y Tam bảo và khuyến phát tâm Bồ đề cho các loài hữu tình đó, nhờ công đức Quy y Tam bảo mà khi hết duyên mang thân súc sinh thì những chúng sinh này sẽ được tái sinh lên cảnh giới cao hơn, được gặp Phật, nghe Pháp, giải thoát giác ngộ, tự độ cho bản thân và chúng sinh. Người phóng sinh cũng phải phát tâm Từ bi, tâm Bồ đề rộng lớn, nguyện đem công đức phóng sinh này hồi hướng đến người thân, đến pháp giới chúng sinh đều phát tâm Bồ đề, cùng thành Phật đạo. Cũng nên phát nguyện kết duyên lành với các chúng sinh đó, nguyện đời đời kiếp kiếp sinh ra được thân cận, làm quyến thuộc Bồ đề, cùng tu thành Phật đạo.
Đặc biệt, Đức Phật cũng có dạy: Đối với những chúng sinh bị giam cầm để giết hoặc là khi đi đường gặp những súc sinh, chúng ta cũng phải khởi tâm từ bi, tâm tưởng, miệng nói thầm: “Các ngươi là súc sinh, phải phát tâm Bồ đề. Súc sinh quy y Phật, súc sinh quy y Pháp, súc sinh quy y Tăng” 3 lần nói như vậy rồi trải tâm từ tới tất cả muôn loài chúng sinh.

THỦ TỤC ĐƠN GIẢN NẾU KHÔNG ĐẾN CHÙA ĐƯỢC, MÀ CẦN PHÓNG SANH NGAY :

(NẾU CÓ CHÚT THỜI GIAN THÌ ĐỌC)
Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Phóng sinh vương Bồ tát Ma ha tát (3 lần)

Sau đó chú nguyện quy y tam bảo cho các con vật mà mình phóng sinh
QUY Y PHẬT - QUY Y PHÁP - QUY Y TĂNG ( 3 lần )
QUY Y PHẬT KHÔNG ĐỌA ĐỊA NGỤC. - QUY Y PHÁP KHÔNG ĐỌA NGẠ QUỶ. - QUY Y TĂNG KHÔNG ĐỌA SÚC SINH ( 3 lần )

Con tên...Tuổi...Pháp danh...Nay vì lòng Từ Bi thương xót chúng sanh bị đọa đày trong kiếp cầm thú nên hôm nay làm lễ phóng sanh và quy y cho các loài chúng sanh này, nhờ công đức quy y mà các chúng sanh này được kết duyên lành cùng với Phật pháp, cầu xin 10 PHƯƠNG Chư Phật cùng Chư vị Bồ Tát từ bi che chở con nguyện cho chúng khi mãn báo thân này được trở lại làm người biết Phật pháp mà tu hành để mong một ngày nào đó tìm được sự giải thoát!


Mọi công đức lành hôm nay con nguyện hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh, hồi hướng về Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà, hồi hướng cho các chúng sanh còn đang bị đọa lạc trong 3 đường ác Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, hồi hướng cho Cửu Huyền Thất Tổ, Ông, Bà, Cha, Mẹ cùng tất cả những người thân của con. Người chết thì được sinh về Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà, người còn sống thì được bình yên tai qua nạn khỏi.

NAM MÔ CHỨNG MINH SƯ BỒ TÁT MA HA TÁT ( 3 lần ) - Nếu người nào thuộc chú Đại Bi thì nên đọc thêm một biến chú Đại Bi! Còn nếu không thuộc chú Đại Bi thì niệm Phật! Cho dù có đọc chú Đại Bi hay không đọc nhưng không thể thiếu niệm Phật các bạn nhớ nhé!!! - NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ( 10 lần ) - NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ( 10 lần )

Sau đó đem phóng sanh coi như đã hòan mãn, cách các bạn có thể tự làm trong chùa hoặc đem về nhà của mình cũng được! 

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!

NGHI THỨC ĐẦY ĐỦ

Khi có đầy đủ điều kiện phương tiện để thực hiện nghi thức phóng sinh, chúng ta phải thắp hương, đèn nến, đặt chúng sinh được thả ở nơi sạch sẽ, ngồi hoặc đứng, thỉnh chuông rồi chắp tay đọc như sau:
Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Phóng sinh vương Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
(Có thời gian thì nên tụng 3 biến chú Đại bi, 1 biến thập chú, tụng xong thì đọc):
Chúng sinh đây có bấy nhiêu
Lắng tai nghe lấy những điều dậy khuyên:
Các ngươi trước lòng trần tục lắm
Nên kiếp này sống đọa hoang mê
Tối tăm chẳng biết tu trì
Gây nên nghiệp báo lại về mình mang
Sống đọa đầy, chết thường đau khổ
Lông, vây, sừng có đỡ được đâu
Dù là bay bổng, lặn sâu
Lưới vây, tên bắn, ao sâu thả mồi
Tát cạn bắt cùng hơi hun độc
Lúc đó dù kêu khóc ai thương
Nằm trên chốc thớt là thường
Hồn còn phảng phất, nấu rang xong rồi
Muôn phần chết nay ngươi cầm chắc
May sao gặp được bậc Thiện nhân
Cứu cho ngươi được thoát thân
Lại về Cực lạc an vui đời đời
Vậy ngươi kíp hồi đầu quy Phật
Xong dốc lòng quy Pháp, quy Tăng
Quy rồi tội chướng sạch băng
Trí khôn sáng tỏ tưng bừng khắp nơi
Phát tâm quy sau rồi được hưởng
Về Tây phương sung sướng đời đời
Lên tòa sen được thảnh thơi
Không hề lui chuyển an vui tháng ngày. 000
- Chúng sinh ở dưới nước (các loài sống dưới nước thì đọc vậy), bay trên không (các loài chúng sinh sống trên cạn, trên cao) các ngươi Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (đọc 3 lần) 0
- Chúng sinh ở dưới nước (các loài sống dưới nước thì đọc vậy), bay trên không (các loài chúng sinh sống trên cạn, trên cao) các ngươi Quy y Phật sẽ không bị đọa và địa ngục, quy y Pháp sẽ không bị đọa vào Ngã quỷ, quy y Tăng sẽ không bị đọa vào các loài súc sinh (đọc 3 lần) 0
- Chúng sinh ở dưới nước (các loài sống dưới nước thì đọc vậy), bay trên không (các loài chúng sinh sống trên cạn, trên cao) các ngươi Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi (đọc 3 lần) 0
Các ngươi đã quy y Tam bảo trọn vẹn rồi, nghiệp chướng của các ngươi được tiêu trừ, trí tuệ của các ngươi được khai thông để các ngươi phát tâm Bồ đề, niệm Phật cầu nguyện để khi trút bỏ thân súc sinh này, được vãng sinh sang Tây phương Cực lạc, Liên hoa hóa sinh nhập Bất thoái địa
Nên có bài kệ chú rằng:
“Các ngươi kiếp xưa nghiệp chướng dầy nên mới bị tên, đạn, lưới vây. May gặp duyên lành công đức lớn. Quy y Tam bảo tội tiêu ngay. 0
Vậy xin các Đạo hữu vì những chúng sinh đây mà phát tâm niệm Phật 000
Phật Di Đà mình vàng lấp lánh
Tướng tốt thay trong sáng không bì
Mi trắng tỏa Tu-di năm núi
Mắt như bốn biển lớn trong sanh
Hào quang hóa Phật hình vô ức
Hóa Bồ tát cũng thật vô biên
Bốn tám nguyện khắp miền độ chúng
Chín phẩm Hàm linh chứng Bồ đề
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật (3 lần) 000
Nam mô A Di Đà Phật (1 tràng hoặc 3 tràng) 000
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (10 lần) 0
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần) 0
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (10 lần) 0
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (10 lần) 000
Phóng sinh hạnh tuyệt vời công đức
Hồi hướng con nguyện khắp chúng sinh
Đang chìm trong biển hữu tình
Sớm sang cõi Tịnh quang minh Di Đà
Nguyện trừ sạch cả ba nghiệp chướng
Trí tuệ quang vô lượng sáng ngời
Hành đạo Bồ tát đời đời
Nguyện sinh Tịnh độ thoát nơi cõi phàm
Ngôi chín phẩm sen làm cha mẹ
Hoa nở rồi Thánh sẽ tiếp nghinh
Thấy Phật liền chứng vô sinh
Bạn cùng Bồ tát đồng hành không lui. 000
- Con quy Phật rồi, nguyện cho chúng sinh thấu hiểu đạo lớn, phát tâm vô thượng. 0
- Con quy Pháp rồi, nguyện cho chúng sinh, thông thuộc Kinh tạng, trí tuệ như biển. 0
- Con quy Tăng rồi, nguyện cho chúng sinh hòa hợp đại chúng hết thảy không ngại. 000
Lạy chư Thánh hiền
Nguyện đem công đức này
Hồi hướng về khắp cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo. 000

Bạn có thể vừa đọc vừa mở Video sau đây nếu bạn chưa thành thạo.




NGHI THỨC THỨ HAI
Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần) 0
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần) 0
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần) 0
Nam mô Phóng sinh vương Bồ tát Ma ha tát (3 lần) 000
(Có thời gian thì nên tụng 3 biến chú Đại bi, 1 biến thập chú, tụng xong thì đọc):
Lời Đức Phật dạy rằng: “Tình nhiều tưởng ít thời phải sa đọa vào loài súc sinh”. Thế nên biết rằng: Các người kiếp xưa tối tăm ngu si chẳng tu chính niệm nên nay mới phải mang lông mang vẩy, chịu những thân hình kém cỏi hèn yếu, nào bơi dưới nước, nào bò trên cạn, nào bay trong không, để rồi mang vạ, hoặc bị móc câu, hoặc bị tên bắn, hoặc bị lưới giăng, tính mệnh nằm nơi lưỡi dao mặt thớt, hồn phách bay trong nước sôi lửa bỏng Nay nhân gặp được các vị thiện tín bỏ tiền tài ra chuộc mạng các ngươi, cứu sống các ngươi trong ngàn cái chết. Trước đàn tràng đây cầu xin chư Phật, Bồ tát, Thánh hiền bố thí các ngươi chút ít linh thông, vậy các ngươi phải nhất tâm mà quy mệnh Tam bảo. 000
- Chúng sinh ở dưới nước (các loài sống dưới nước thì đọc vậy), bay trên không (các loài chúng sinh sống trên cạn, trên cao) các ngươi Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (đọc 3 lần) 0
- Chúng sinh ở dưới nước (các loài sống dưới nước thì đọc vậy), bay trên không (các loài chúng sinh sống trên cạn, trên cao) các ngươi Quy y Phật sẽ không bị đọa và địa ngục, quy y Pháp sẽ không bị đọa vào Ngã quỷ, quy y Tăng sẽ không bị đọa vào các loài súc sinh (đọc 3 lần) 0
- Chúng sinh ở dưới nước (các loài sống dưới nước thì đọc vậy), bay trên không (các loài chúng sinh sống trên cạn, trên cao) các ngươi Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi (đọc 3 lần) 0
Các ngươi đã quy y Tam bảo trọn vẹn rồi, nghiệp chướng của các ngươi được tiêu trừ, trí tuệ của các ngươi được khai thông để các ngươi phát tâm Bồ đề, niệm Phật cầu nguyện để khi trút bỏ thân súc sinh này, được vãng sinh sang Tây phương Cực lạc, Liên hoa hóa sinh nhập Bất thoái địa
Nên có bài kệ chú rằng:
“Các ngươi kiếp xưa nghiệp chướng dầy nên mới bị tên, đạn, lưới vây. May gặp duyên lành công đức lớn. Quy y Tam bảo tội tiêu ngay. 0
Vậy xin các Đạo hữu vì những chúng sinh đây mà phát tâm niệm Phật 000
Phật Di Đà mình vàng lấp lánh
Tướng tốt thay trong sáng không bì
Mi trắng tỏa Tu-di năm núi
Mắt như bốn biển lớn trong sanh
Hào quang hóa Phật hình vô ức
Hóa Bồ tát cũng thật vô biên
Bốn tám nguyện khắp miền độ chúng
Chín phẩm Hàm linh chứng Bồ đề
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật (3 lần) 000
Nam mô A Di Đà Phật (1 tràng hoặc 3 tràng) 000
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (10 lần) 0
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần) 0
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (10 lần) 0
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (10 lần) 000
Phóng sinh hạnh tuyệt vời công đức
Hồi hướng con nguyện khắp chúng sinh
Đang chìm trong biển hữu tình
Sớm sang cõi Tịnh quang minh Di Đà
Nguyện trừ sạch cả ba nghiệp chướng
Trí tuệ quang vô lượng sáng ngời
Hành đạo Bồ tát đời đời
Nguyện sinh Tịnh độ thoát nơi cõi phàm
Ngôi chín phẩm sen làm cha mẹ
Hoa nở rồi Thánh sẽ tiếp nghinh
Thấy Phật liền chứng vô sinh
Bạn cùng Bồ tát đồng hành không lui. 000
- Con quy Phật rồi, nguyện cho chúng sinh thấu hiểu đạo lớn, phát tâm vô thượng. 0
- Con quy Pháp rồi, nguyện cho chúng sinh, thông thuộc Kinh tạng, trí tuệ như biển. 0
- Con quy Tăng rồi, nguyện cho chúng sinh hòa hợp đại chúng hết thảy không ngại. 000
Lạy chư Thánh hiền
Nguyện đem công đức này
Hồi hướng về khắp cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo. 000

Ghi chú: Người phóng sinh có thể hồi hướng công đức phóng sinh tới người thân của mình đang bị ốm đau hoạn nạn, hoặc hồi hướng công đức cho bản thân mình được tiêu trừ nghiệp chướng, Bồ đề tâm tăng trưởng, hoặc hồi hướng cầu nguyện cho Đạo pháp trường tồn, thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.




Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2013

NGHI THỨC TRÌ NIỆM CHÚ ĐẠI BI


 TRÌ NIỆM THẦN CHÚ ĐẠI BI ĐÚNG CÁCH

 Những bước chuẩn bị trước khi trì niệm thần chú đại bi.

Bồ Tát Quán Thế Âm đã hứa với chúng ta: “Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả Thiện thần, Long vương, Kim Cang, Mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hay thân mạng của chính họ“.
Như vậy, thế nào là tụng trì chú đại bi đúng pháp?
Trong phần hình trạng tướng mạo đã chỉ rõ mười đặc tính cốt yếu của Thần chú Đại Bi mà quan trọng hàng đầu là tâm Đại Từ Bi, cho nên mỗi lần trì tụng thần chú này hành giả phải bắt đầu hướng tâm vào việc quán tưởng khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh. Một cách lý tưởng, để đạt được những công năng mà thần chú mang lại, trong thời gian trì tụng, hành giả phải giữ gìn giới hạnh, đặc biệt là sát, đạo, dâm, vọng. Phải kiêng cử rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi, cùng các thức ăn hôi hám. Tốt nhất là nên ăn chay.
Phải giữ vệ sinh thân thể, thường xuyên tắm gội, thay đổi y phục sạch sẽ, không nên để cho trong người có mùi hôi. Trước khi trì chú cũng phải đánh răng, súc miệng sạch sẽ, nếu trước đó có đi đại tiện, tiểu tiện thì phải rửa tay sạch sẽ trước khi trì tụng.Tóm lại, “Giữ gìn trai giới,ở nơi tịnh thất,tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan đốt đèn, dùng hương hoa cùng thực phẩm cúng dường, buộc tâm một chỗ”, đó là tất cả những điều kiện lý tưởng để hành giả trì chú Đại Bi. Tuy nhiên, như phần trên đã nói, Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện. Điều này cho phép hành giả có thể trì tụng bất cứ lúc nào mà điều kiện cho phép. Trên xe, trên tàu, trên máy bay, tại sở làm, tại nhà… Với tâm thành, tâm chúng ta lúc đó sẽ hòa nhập vào lời trì tụng đểø cùng thể nhập vào pháp giới, mười phương chư Phật. Bơỉ vì Bồ Tát đã cho chúng ta biết, mỗi lần trì tụng thần chú Đại Bi, thập phương chư Phật đều đến chứng minh.
Bàn thờ:
Hành giả nên có một phòng riêng yên tỉnh để lập bàn thờ Bồ tát. Bàn thờ nên có hình tượng Bồ Tát ngàn tay, ngàn mắt. Nếu không có thì có thể sử dụng bất cứ hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nào mà mình hiện có. Hình tượng Bồ Tát nên để day mặt về hướng Tây. Trên bàn thờ tuy không bắt buộc nhưng nên có hoa tươi, trái cây, lư hương để cắm nhang, nước cúng. Nên để đèn sáng mỗi khi hành lễ.
Cách thức ngồi, lạy :
Mỗi người nên có một tọa cụ, hoặc đơn giản hơn, một miếng vải sạch hay khăn bông xếp lại để làm chỗ tọa thiền. Hành giả nên ngồi theo cách thức kiết già nhưng nếu gặp khó khăn thì có thể ngồi theo cách thức bán già (ngồi xếp bằng, chân phải gác lên chân trái hay ngược lại), lòng bàn tay để ngữa hướng lên trên, bàn tay mặt để lên trên bàn tay trái, hai đầu ngón cái đụng vào nhau. Mắt nên mở hé, nếu nhắm hẵn thì dễ rơi vào trạng thái hôn trầm, nếu mở lớn thì khó định tâm.
Lạy là nghi thức biểu lộ sự cung kính, tôn trọng. Mỗi thời đại có một cung cách khác nhau để biểu lộ sự tôn trọng. Lối lạy kiểu cũ theo cách thức của người Trung Hoa có nhiều điểm rất bất tiện, không thích hợp cho không khí thiền đường. Trước hết, với kiểu lạy này, khi hành lễ mỗi người chiếm một khoảng diện tích đáng kể đủ để có thể đứng và qùy xuống lạy, gây trở ngại cho những thiền đường nhỏ. Việc đứng lên qùy xuống gây ra những tiếng động của động tác, tiếng sột soạt của quần áo, những động tác này cũng có thể làm phóng ra những bụi bặm, vi trùng mà ta mang trên quần áo, những mùi hôi của cơ thể – nhất là trong những xứ khí hậu nóng nực-, làm mất vệ sinh, gây ô nhiễm môi trường ta cần có để thở. Chưa kể là việc đứng lên qùy xuống lộn xộn trong những tư thế rất khó coi… Cho nên, chúng ta có thể thực hành một cách lạy tương đối đơn giản trong khi hành lễ, là thiền sinh cứ ngồi theo tư thế hành thiền, kiết già hay bán già, khi lạy chỉ cúi gập đầu xuống sàn phía trước, kéo dài tư thế này một khoảng thời gian ngắn đủ để niệm một câu “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm BồTát”, xong ngồi dậy.
Cách thức tụng đọc chú đại bi :
Chú Đại Bi phải nên được trì tụng lớn tiếng, giọng điệu trầm hùng, nhanh và liên tục bằng cách lấy hơi từ bụng ra. Lớn tiếng ở đây không có nghĩa là ta phải la lớn lên, nhưng giọng đọc phải rõ ràng, nghe đủ tiếng, không lờ mờ, trại giọng.
Kinh “Nghiệp Báo Sai Biệt” cho biết việc niệm Phật, tụng kinh, trì chú lớn tiếng có mười công đức sau đây :
1. Dẹp được sự buồn ngủ ám ảnh
2. Thiên ma hoảng sợ.
3. Tiếng vang khắp mười phương
4. Ba đường hết khổ
5. Tiếng đời chẳng lọt vào tai
6. Lòng không tán loạn
7. Dõng mãnh tinh tấn
8. Chư Phật vui mừng
9. Tam muội hiện ra trước mắt
10. Vãng sanh Tịnh Độ
Thật sự, ta cũng sẽ không lo ngại cơn buồn ngủ ám ảnh. Bởi vì khi trì tụng chú Đại Bi, các vị Thiên, Long, Hộ Pháp sẽ luôn ở bên cạnh ta, khi ta rơi vào cơn buồn ngủ, các Ngài sẽ giúp đánh thức ta -mà rồi qúy vị sẽ chứng nghiệm khi thực hành trì chú một cách nghiêm túc- bằng một âm thanh như tiếng sấm nổ ở trong đầu khiến ta hoảng hồn, giật mình tỉnh thức. Thông thường sau đó ta sẽ không còn (hoặc không dám) buồn ngủ nữa. Tuy nhiên, nếu việc này xảy ra một lần thứ hai trong buổi hành Thiền, điều này có nghĩa là thể xác ta quá mỏi mệt, ta nên xin phép được xả thiền để nghỉ ngơi.
Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt phải tụng thầm chỉ riêng cho mình nghe, hoặc chỉ nhép môi không ra tiếng như khi chúng ta đang làm việc, đi chung xe tàu với người khác, hoặc đi nằm trước khi ngủ.
 
  NGHI THỨC TỤNG CHÚ ĐẠI BI
(Chư Phật tử nghiêm tịnh thân tâm, quỳ, chấp tay cung kính. Chủ lễ nguyện hương.)
 
            Ðọc Tịnh Pháp Giới Chơn ngôn: Án Lam (7 biến)
  
Tịnh Tam Nghiệp Chơn ngôn: Án, Ta Phạ Bà Phạ Thuật Ðà Ta Phạ, Ðạt Ma Ta Phạ, Bà Phạ, Thuật Ðộ Hám (3 lần)
 
Lục Tự Đại Minh Chú: Án Ma Ni Bát Di Hồng (7 lần)

  Nguyện Hương
 
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương.
Phưởng phất khắp mười phương.
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sinh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ Đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ Giác (1 lạy) o
 
2/. Kỳ Nguyện
(Riêng cho vị chủ lễ)
 
Tư thời đệ tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, tập thử công đức, nguyện thập phương thường trú Tam Bảo, Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, từ bi gia hộ cho đệ tử ............ pháp danh .............. phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, xa lìa khổ ách, tăng tiến Bồ đề, cùng tất cả chúng sanh đồng chứng vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
  (Đứng dậy cấp hương lên lư rồi chấp tay đứng thẳng và niệm lớn)
 
  Tán Thán Phật
  Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng.
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp không cùng tận. () o
   
  Đảnh Lễ Tam Bảo
  Chí Tâm Đảnh Lễ:
  Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy) o
 
Chí Tâm Đảnh Lễ:
  Nam mô Ta Bà Giáo chủ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy) o
 
Chí Tâm Đảnh Lễ:
  Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.  (1 lạy) o
 
   Tán Lư Hương
 
Lư hương vừa bén chiên đàn,
Khói bay nghi ngút muôn vàn cõi xa,
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng cho.
 
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3lần) o

CHÚ ĐẠI BI

NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vo ngại đại bi tâm đà ra ni
 
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
 
Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
 
Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
 
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt xa phạt xâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hệ rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra ma ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma ba lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. o
 
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
 
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
 
Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. o

 (có thể tụng từ 5, 7, 14, 27, 35, 49 cho đến 108 lần, tùy vào thời gian cho phép)

  Hồi Hướng
 
Tụng Chú công đức thù thắng hạnh,
Bao nhiêu phước đức sẵn dành chúng sinh,
Nguyện cho tất cả hàm linh,
Sớm về cõi tịnh nghe kinh diệu huyền
Nguyện tiêu ba chướng não phiền,
Cầu chơn trí huệ phá xiềng vô minh.
Nguyện trừ tội chướng điêu linh,
Hạnh lành Bồ tát thường tinh tấn làm.
Nguyện sanh cõi tịnh siêu phàm
Hoa sen chín phẩm sẽ làm mẹ cha.
Hoa nở thấy Phật hiện ra,
Vô sanh chứng ngộ bạn ta thánh hiền.
Nguyện đem công đức hiện tiền,
Hướng về khắp cả các miền gần xa.
Con và cha mẹ, ông bà,
Chúng sanh giác ngộ chan hòa pháp thân. o
 
  Tự Tam Quy:
 
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy) o
 
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập Kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy) o
 
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại. (1 lạy) o
 


BƯỚC ĐẦU VÀO ĐẠO

BƯỚC ĐẦU VÀO ĐẠO
Bạn là người mới bước chân vào đạo nên học và nghe bài giảng này. Đây cũng như là cơ sở, nền móng cho tất cả những bài giảng khác ở trình độ cao hơn. nếu bạn không nghe, không hiệu những điều cơ bản này, thì việc tu tập của bạn giống như không có mục đích, không có điểm đến. Vậy bạn, đã chuẩn bị cho mình được gì, bạn đã có được những hiểu biết gì khi bước vào đạo, bạn sẽ đi con đường nào, cách thức để đi đến như thế nào? bạn hãy bỏ chút thời gian, nghe bài giảng này thật kỹ, nghe đi nghe lại nhiều lần. Mong rằng bạn sẽ có nền móng cho sự tu tập của bản thân và có sự giác ngộ một con đường đạo.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!

(Bấm vào để xem video:
 http://www.youtube.com/watch?v=8Gu3SDEfyms
 do Đại đức Thích Trí Huệ giảng)

HOẶC trang BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT ở đây:
http://giacngovnnh.blogspot.com/

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

CHÚ ĐẠI BI VÀ SỰ LINH ỨNG CỦA QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT

CHÚ ĐẠI BI VÀ SỰ LINH ỨNG CỦA QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT

Đại đức: Thích Trí Huệ giảng



 NGHI THỨC TRÌ CHÚ ÐẠI BI (ĐƠN GIẢN)

Bi Ai Lớn Nhất Của Đời Người Là Ghen Tị
Bổn Giác sưu tầm.

I. TƯỚNG DỤNG CHÚ ĐẠI BI
Phật nói chú này là thần chú quảng đại viên mãn, thần chú vô ngại đại bi, thần chú cứu khổ, thần chú diên thọ, thần chú diệt ác, thần chú phá ác nghiệp, thần chú mãn nguyện, thần chú tùy tâm tự tại, thần chú mau lên bậc trên... Trì chú này thì diệt vô lượng tội, được vô lượng phước, và chết thì sinh Cực lạc. Quan âm đại sĩ nói, trì chú này thì hết bịnh, hết nạn, tiêu ác pháp, tăng bạch pháp, như ý, như nguyện, đặc biệt gần chết thì được chư Phật trao tay, muốn sinh tịnh độ nào thì tùy ý mà sinh.
Biểu tượng của chú này là tâm đại bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm vô nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm tốn, tâm không hỗn loạn, tâm không kiến thủ, tâm tuệ giác vô thượng. Trì chú này thì phải hành theo biểu tượng như vậy.

II. HÀNH PHÁP CHÚ ĐẠI BI
Trì chú Ðại bi, đúng ra, mỗi một ngày đêm phải và chỉ cần 5 biến. Muốn trì chú này thì phải phát bồ đề tâm, rồi kính giữ trai giới, luôn luôn bình đẳng đối với tất cả, và trì tụng liên tục. Quan âm đại sĩ nói, đối với người ấy, ta soi thấy bằng ngàn mắt và nắm giữ bằng ngàn tay.

 Dưới đây là nghi thức trì chú Ðại bi được lược lại giản dị. Nghi thức này nổi tiếng là hiệu quả:

1. Phụng hành
Nhất tâm phụng thỉnh Phật Pháp Tăng, vô thượng tam bảo (1 lạy).
Nhất tâm phụng thỉnh đức Phật bổn sư là Thích ca mâu ni như lai (1 lạy).
Nhất tâm phụng thỉnh vị có vô ngại đại bi tâm là Quan thế âm đại bồ tát (1 lạy).
Nhất tâm phụng thỉnh liệt vị Bồ tát,Duyên giác, La hán, liệt vị Phạn vương, Ðế thích và chư thiên thiện thần (1 lạy).
2. Tác bạch
Ðệ tử họ tên .....XX......., pháp danh .........XX........ (nếu đã có), phát nguyện trì chú Ðại bi, cầu cho bản thân, cho thân nhân, cho chúng sinh, tất cả cùng được thành tựu đại bi thắng phước. Ngưỡng nguyện đức đại bi Quan thế âm cùng Phật Pháp Tăng vô thượng tam bảo mật thùy chứng minh gia hộ.
3. Ðảnh lễ
Kính lạy Phật Pháp Tăng tam bảo vô thượng trong mười phương ba đời (1 lạy).
Kính lạy đức Phật bổn sư là Thích ca mâu ni như lai (1 lạy).
Kính lạy bài chú Tinh túy của đại từ bi (1 lạy).
Kính lạy vị thuyết ra bài chú Tinh túy của đại từ bi là Quan thế âm đại bồ tát (1 lạy).
Kính lạy đức Phật bổn sư của đức Quan thế âm 1à A di đà như lai (1 lạy).
Kính lạy đức Phật truyền thọ cho đức Quan thế âm bài chú Tinh túy của đại từ bi là Thiên quang vương tịnh trú như lai (1 lạy).
Kính lạy các vị pháp vương tử quán đảnh trong pháp hội tuyên thuyết bài chú Tinh túy của đại từ bi mà đứng đầu là đại bồ tát Tổng trì vương, đại bồ tát Bảo vương, đại bồ tát Dược vương, đại bồ tát Dược thượng, đại bồ tát Ðại thế chí, đại bồ tát Hoa nghiêm, đại bồ tát Ðại trang nghiêm, đại bồ tát Bảo tạng, đại bồ tát Ðức tạng, đại bồ tát Kim cang tạng, đại bồ tát Hư không tạng, đại bồ tát Di lạc, đại bồ tát Phổ hiền, đại bồ tát Văn thù (1 lạy).
4. Phát nguyện
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con mau biết tất cả các pháp (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con sớm được con mắt trí tuệ (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con mau độ tất cả chúng sinh (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con sớm được phương tiện tuyệt hảo (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con mau ngồi thuyền tàu bát nhã (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con sớm vượt biển cả khổ đau (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con mau được các pháp giới định (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con sớm lên núi cao niết bàn (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con mau về ngôi nhà vô vi (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con sớm đồng thân thế pháp tánh (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến núi đao thì núi đao tự gãy (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến vạc sôi thì vạc sôi tự cạn (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến địa ngục thì địa ngục tự hủy (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến ngạ quỉ thì ngạ quỉ tự no (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến tu la thì tu la tự hiền (1 lạy).
Kính lạy đức Quan thế âm, nguyện con đến súc sinh thì súc sinh tự khôn (1 lạy).

5. Trì niệm
Nam mô Quan thế âm bồ tát (21 tiếng đến 49 tiếng rồi lạy 3 lạy).
Nam mô A di đà phật (như trên).

6. Trì chú
Nam mô Ðại bi hội thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni:
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca rô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát đả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Ðát điệt tha. Án. A bà lô hê, lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Ðộ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế. Ðà ra đà ra. Ðịa rị ni. Thất phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ. Phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm phật ra xá lị, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ, bồ đề dạ. Bồ đà dạ, bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn trì. Ðịa lị sắt ni na. Ba dạ ma na, sa bà ha. Tất đà dạ, sa bà ha. Ma ha tất đà dạ, sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra, sa bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ, sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì, bàn đà ra dạ, sa bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da, Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, sa bà ha. Án tát điện đô, Mạn đa ra, Bạt đà da, sa bà ha.
(5 lần, tụng theo bình thường; tụng thẳng Phạn tự không linh nghiệm bằng, có người kiên nhẫn thử nghiệm thấy như vậy).

7. Sám nguyện
Kính lạy đại bồ tát Quan thế âm, vô thỉ đến giờ, con vốn có tâm tánh thanh tịnh mà lại u mê ám chướng, sống trong pháp tánh bình đẳng mà lại nhân ngã bỉ thử, lỗi gây ra không thể xiết kể, tội bùng dậy khó nỗi hủy diệt. Ngày nay nhờ đại bi của đại bồ tát, đại lực của đại thần chú, con nguyện được tiêu diệt cả (1 đến 3 lạy; 3 lạy thì mỗi lạy đọc 1 lần).
Kính lạy đại bồ tát Quan thế âm, xin đại bồ tát nắm giữ con bằng ngàn tay, soi thấy con bằng ngàn mắt, làm cho con bặt hết yếu tố tội ác, làm theo hạnh nguyện quảng đại, đủ đại từ bi, chứng đại bát nhã (1 đến 3 lạy; 3 lạy thì mỗi lạy đọc 1 lần).

8. Hồi hướngNguyện đem công đức này
hồi hướng khắp tất cả,
đệ tử và chúng sinh
đều trọn thành Phật tuệ.

Kính lạy Phật Pháp Tăng, vô thượng tam bảo (1 lạy).
Kính lạy đức Phật bổn sư là Thích ca mâu ni như lai (1 lạy).
Kính lạy vị có vô ngại đại bi tâm là Quan thế âm đại bồ tát (1 lạy).
Kính lạy bài chú Tinh túy của đại từ bi (1 lạy).
Kính lạy đức Phật bổn sư của đức Quan thế âm là A di đà như lai (1 lạy).
Kính lạy đức Phật truyền thọ cho đức Quan thế âm bài chú Tinh túy của đại từ bi là Thiên quang vương tịnh trú như lai (1 lạy).
Kính lạy liệt vị Bồ tát, Duyên giác, La hán, liệt vị Phạn vương, Ðế thích và chư thiên thiện thần (1 lạy).

Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2013

22 ĐIỀU LỢI ÍCH KHI NIỆM PHẬT

22 ĐIỀU LỢI ÍCH KHI NIỆM PHẬT
Theo yêu cầu của một số phật tử tại gia, hôm nay chúng tôi đăng lại bài này và gửi lại đường link về bài  22 ĐIỀU LỢI ÍCH KHI NIỆM PHẬT đã đăng ở đây để quý vị tham khảo:
http://giacngovnna.blogspot.com/2013/01/22-ieu-loi-ich-khi-niem-phat.html
 
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT 

Chúng ta niệm phật dù ít dù nhiều đều có công đức. Người tu niệm phật là người phát tâm tu niệm hồng danh của đức phật a di đà mà trong tâm không cầu xin gì cả mà niệm phật để cầu giải thoát, giác ngộ. Mà trong kiếp sống này người đó phát tâm bồ đề nguyện được thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Ngồi quỳ trước ban thờ phật quí vị phát nguyện: Con là ........., pháp danh là ............ Hôm nay con niệm phật để cầu ..... nhờ đức phật ai hữu gia hộ cho con để cho con yên tâm tu niệm.(Sau đó niệm phật: NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT  ....- niệm đều tiếng, liên tục không
đứt đoạn, tham khảo thêm cách niệm phật )
 22 điều lợi ích khi niệm phật đó là:
1. Niệm phật diệt trừ tội chứng sâu nặng ở trong tâm;
2. Được ánh sáng nhiếp thọ (Hộ trị tâm cho chúng ta);
3. Niệm phật được Đức phật A Di Đà hộ niệm (hộ cho mình niệm);
Khi chúng ta tu niệm phật, thì mình quỳ trước bàn thờ Phật nói con tên họ là gì, pháp danh... Từ nay con quyết quy y với đức Phật a di đà, con niệm đến hồng danh của ngài, khi con sống trên thế gian này xin ngài độ cho con nhiếp tập vào sâu trong chánh niệm và khi con xả cái thân này rồi, xin ngài cùng thánh chúng rước con về cõi tây phương cực lạc. Mình phát cái tâm đó, mình niệm Nam mô a di đà phật.  
4. Bồ Tát thầm gia hộ (bồ tát, chư phật, chư thiên nghe bằng tâm niệm, chúng ta tịnh tâm lại thì Đức quán thế âm bồ tát nghe liền);
5. Được chư phật bảo hộ (Bảo là bảo trì, hộ là hộ độ từ đầu tới cuối)
6. Bát bộ hộ vệ (tám vị thần Kim Cang hộ trì - các vị hộ pháp)
7. Báu vật công đức tích tụ (Có công đức - là tu tập chuyển tâm phàm thành tâm thánh)
8. Đa văn trí tuệ (được thông minh)
9. Niệm phật nhiếp tâm không thối chuyển đạo bồ đề (Ma chướng không xâm nhập được)
10. Thấy phật A Di Đà
11. Cảm thánh chúng đều tiếp rước (Khi lâm chung được tiếp rước)
12. Từ quang chiếu rọi . Lòng từ thương yêu tất cả muôn loài. Mỗi khi chúng ta ngủ thức dậy, chúng ta đọc: Nam mô bổn sư thích ca mâu ni phật, Nam mô a di đà phật, Con tên gì đó, pháp danh gì đó, Xin mười phương chư phật gia hộ cho con có đủ lòng thương yêu tất cả mọi loài chúng sanh, từ loài hữu tình đến loài vô tình, loài sống trên cạn, loài sống dưới nước, loài sống trên không và tất cả mọi loài trong tam giới cho con đều biết thương yêu cả.
13. Bạn lành thánh chúng đồng khen ngợi (Bạn lành tán thán)
14. Bạn lành thánh chúng đồng tiếp rước;
15. Thần thông bay lên hư không (Có thần thông);
16. Sắc thân thù thắng (Sắc tướng càng ngày càng đẹp ra);
17. Niệm phật mạng sống lâu dài.
18. Được sanh nơi thù thắng (Được sanh ở những nới tốt đẹp tránh được 3 đường ác: Địa ngục, ngã quỷ, súc sinh);
19. Tận mắt gặp thánh chúng;
20. Chứng ngộ vô sanh pháp nhẫn (thoát khỏi luân hồi sinh tử đời đời kiếp kiếp không quay lại);
21. Trải qua phụng sự cho phật pháp, phát tâm bồ tát dễ dàng (Tâm bồ tát);
22. Trở về cõi nước mình được Đà La ni (Tổng trì);

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

NIỆM PHẬT SÁM HỐI TỘI DIỆT - PHƯỚC SINH

NIỆM PHẬT SÁM HỐI TỘI DIỆT PHƯỚC SINH

Tại sao lại nói: Niệm phật sám hối tội diệt Phước sinh? Đại Đức Thích Trí Huệ sẽ giải thích cụ thể niệm phật là gì? vì sao lại tội diệt? phước sinh?

Con người chúng ta đã trả qua trăm nghìn muôn kiếp, mỗi kiếp chất chồng bao nhiêu tội lỗi và đến kiếp này mang theo biết bao nhiêu nghiệp chướng (mà ta thường hay nói là tội nghiệp). Đã mang theo tội nghiệp thì ắt hẳn phải trả. Nhưng khi niệm phật thì tội lỗi này dần dần mất đi, do lòng từ bi của chúng ta sinh ra, lớn dần lên, cư xử đúng đạo lý, trời đất cảm động, tội nghiệp sẽ bị diệt dần đi. Từ đó mà Phước Đức tăng trưởng. Nhiều bài trước, Đại đức Thích Trí Huệ đã giảng rõ. Hôm nay, với chút lòng thành, chúng tôi gửi bài giảng của Đại đức ở đây, nguyện rằng những ai có duyên đọc được, nghe thấy đều được phát bồ đề tâm, tự tiêu diệt tội lỗi của mình trong muôn kiếp trước.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

Mời quý vị xem VIDEO sau:




Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2013

Sự Giác Ngộ của đức Phật là quá trình chuyển hóa Tâm Linh

Sự Giác Ngộ của đức Phật là quá trình chuyển hóa Tâm Linh. Thích Quang Thạnh




  Chuyển hóa tâm linh là một quá trình nổ lực tu tập liên tục theo thứ lớp bằng con đường Bát Chánh được biểu hiện qua 3 món Tam Vô Lậu: Giới, Định, Tuệ mà Ngài đã trải qua. Chỉ có con đường Bát Chánh mới có thể đưa con người diệt tận phiền não khổ đau, chấm dứt sanh tử luân hồi, đạt đến sự an lạc hạnh phúc, giải thoát giác ngộ.

Với bầu không khí mùa Đông giá lạnh trong khung cảnh êm đềm tịch tĩnh của màn đêm, khi nhân loại còn đang mải mê đắm chìm trong giấc ngủ say sưa của dòng đời vô minh, ngũ dục đầy đau khổ, có ai biết chăng trong số đó một bậc vĩ nhơn siêu phàm chợt bừng tỉnh thức hoàn toàn bản chất tự tâm tại cây Bồ-đề thiêng trong đêm hôm ấy vào năm 528 trước Công Nguyên.(1) Đó là Thái tử Siddhattha với độ tuổi vừa tròn 35. Ngài đã thực sự chứng ngộ quả vị Vô Thượng Bồ-đề, giải thoát hoàn toàn mọi phiền não vô minh, sinh tử luân hồi, và đã trở thành vị Phật với danh hiệu Thích-ca-mâu-ni.
Sự chứng ngộ của Ngài đã mở ra cho nhân loại một hướng đi mới nhằm giải thoát mọi phiền não khổ đau, hầu mang lại cho con người một cuộc sống hoàn toàn chân thiện mỹ và đầy an lạc hạnh phúc qua con đường tu tập lý Trung Đạo mà Ngài đích thân đã chứng ngộ. Trong kinh Pháp Cú, Ngài đã dõng dạc tuyên bố với nhân loại rằng:
"Chỉ có con đường này; không có con đường nào khác đưa đến sự thanh tịnh về tri kiến. Thực hành theo con đường này, mọi thứ khác trên cuộc đời đều là sự mê loạn của Ma Vương" (This is the path; there is no other that leads to the purification of intelligence. Follow this (path), for everything else (in this world) is the deceit of Màra the Tempter).(2)
Ngài cũng khẳng định cho chúng ta biết rằng: Sự giác ngộ của mỗi người đều tuỳ thuộc vào sự nỗ lực tự thân mà không phải nương tựa vào ai:
"Các ngươi phải tự nỗ lực lên. Các đức Như Lai chỉ là những người chỉ dạy. Những người đi theo con đường này và thực hành thiền định sẽ giải thoát khỏi sự ràng buộc của Ma Vương" - (You yourself must make an effort. The Blessed Ones (Tathàgata) are only preachers. Those who follow the Path and practise meditation are freed from the bondage of Màra the Tempter).(3)
Ngày nay, tuy Đức Phật đã đi vào trạng thái Niết-bàn, sự kiện giác ngộ tại linh cội Bồ-đề và lời dạy của Ngài vẫn luôn là tiếng chuông ngân vang mãi trong mỗi trái tim của người con Phật (nói riêng) và cả thế giới nhân loại (nói chung) suốt hơn 25 thế kỷ qua.
Nhân dịp lễ tưởng niệm ngày Phật Thành Đạo, Phật Lịch 2545, và chào đón thiên niên kỷ mới của nhân loại năm 2001 tại Bồ-đề Đạo Tràng, người viết xin được mạo muội góp chút suy nghĩ và sự hiểu biết của mình cho buổi thảo luận với chủ đề: "Sự giác ngộ của Đức Phật là quá trình chuyển hoá tâm linh"

I . GIẢI THÍCH Ý NGHĨA ĐỀ TÀI
Trước nhất, chúng ta nên thảo luận một vài từ ngữ để làm sáng tỏ hơn về ý nghĩa của đề tài. Chữ "giác ngộ" được các nhà học giả dịch ra nhiều khía cạnh và ý nghĩa khác nhau. Theo Từ Điển thuật ngữ Phật học Hán Anh, chữ "giác ngộ" có nghĩa là: "thức tỉnh, trở thành tuệ giác, hoặc sự nhận thức rõ ràng về thực tại tâm linh" (to awake, become enlightenment, or comprehend spiritual reality).(4) Trong cuốn Bách Khoa Từ Điển của Đại học Oxford, "giác ngộ" bao hàm 2 nghiã: (a) hành động tỉnh thức (act of enlightenment), (b) trạng thái được thức tỉnh (state of being enlightened).(5) Ngoài ra, chữ "giác ngộ" còn có nghĩa là "trạng thái tâm linh cao nhất có thể đạt được" (Enlightenment is the highest spiritual state that can be achieved).(6)
Chữ "tâm linh" có nghĩa là "tâm hồn"(7), hay còn gọi là "tâm tinh thần hoặc tư tưởng."(8) Theo Từ Điển Pàli - English, chữ "tâm" được viết theo chữ Pàli là Citta, có nghĩa là "trọng tâm và tiêu điểm của bản tính xúc cảm của con người, cũng như căn bản trí vốn sẵn có bên trong và đi kèm với những sự biểu lộ bên ngoài của nó, ví dụ tư tưởng. Hay nói đơn giản hơn, tâm chính là "sự tư duy" (the center and focus of man’s emotional nature as well as that intellectual element which inheres in and accompanies its manifestations; i.e. thought).(9) Mặt khác, "tâm" có nghĩa là "khả năng để tư duy, cảm thọ và để nhận thức về sự vật" (the ability to think, feel emotions and be aware of thing).(10) Hay có nghĩa là " năng lực tri kiến" (one’s intellectual powers )(11)
Chữ "quá trình" ở đây được dùng để chỉ chung cho khoảng thời gian tu tập lâu dài tuần tự theo thứ lớp, mà không có sự vượt bậc, đột ngột.
Chữ "chuyển hoá" có nghĩa là sự chuyển đổi từ tư tưởng tiêu cực sang tư tưởng tích cực, từ tâm phiền não trở thành tâm giải thoát v.v. . .
Tóm lại, trong đề tài này, người viết muốn nhấn mạnh chữ "giác ngộ" mang ý nghĩa là: sự nhận thức thấu đáo được bản chất như thật của vạn hữu. Chữ "Tâm Linh" được dùng với ý nghĩa: tâm hồn hoặc tư tưởng. Từ đây ta có thể hiểu rõ hơn về chủ đề của bài viết này là: "Sự nhận thức thấu đáo của Đức Phật về bản chất như thật vạn hữu là một quá trình tu tập lâu dài chuyển hoá tâm linh theo thứ lớp."
 
II . SỰ GIÁC NGỘ CỦA ĐỨC PHẬT LÀ QÚA TRÌNH CHUYỂN HÓA TÂM LINH
Khi nói đến "qúa trình," người viết muốn nhấn mạnh về chuỗi thời gian tiệm tiển trong tiến trình giác ngộ của đức Phật để chứng minh rằng: Sự Giác Ngộ của Đức Phật không phải chỉ trong thời gian ngắn ngủi đôi ba phút mà thành tựu, nó đòi hỏi cả một quá trình tu tập lâu dài và bền bỉ của Ngài ngay từ khi bắt đầu thực hành pháp tu khổ hạnh cho đến lúc chứng ngộ quả vị Vô Thượng Bồ-đề, tức thành Phật. Vậy bằng phương pháp gì Đức Phật tu tập trong suốt quá trình chuyển hóa tâm linh để chứng ngộ Bồ-đề? Chúng ta hãy cùng nhau thảo luận tuần tự về vấn đề này.

1. BẰNG PHƯƠNG PHÁP TU TẬP VƯỢT QUA HAI LỐI SỐNG CỰC ĐOAN
Khi Đức Phật còn là một vị Thái tử, Ngài đã từng sống trong cảnh xa hoa lộng lẫy, được nuông chiều chăm sóc và nuôi dưỡng cẩn thận của một hoàng nam: nào là sống trong một cung điện nguy nga tráng lệ sang trọng hợp theo thời tiết 3 mùa: mùa Đông, mùa Hạ, và mùa Mưa; nào là ăn mặc quần áo bằng các loại vải Kàsi thượng hạng được mang về từ thành Ba-la-nại,.v.v.(12); cho đến lúc Ngài trở thành vị Sa-môn thực hiện đời sống tu hành ép xác khổ hạnh hơn ai hết: nào là theo phương pháp hướng nội như thiền nín thở, nghiến răng, chận lưỡi,.v.v.(13); nào là theo phương pháp hướng ngoại như mặc y phấn tảo, nhịn ăn đến độ chỉ còn dùng một nắm gạo hay 1 trái cây mỗi ngày (14). Nhưng tất cả mọi thứ ấy đều không đưa Ngài đến sự an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Ngài nghĩ rằng:
"…Dầu ta có theo cử chỉ như vậy, theo hành lộ như vậy, theo khổ hạnh như vậy, ta cũng không chứng được các pháp Thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Vì sao vậy? Vì với những phương tiện ấy, không chứng được pháp Thượng nhơn với Thánh trí tuệ. Chính thánh trí tuệ này chứng được thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau."(15)
Cuối cùng Ngài đã từ bỏ hai lối sống cực đoan và nhận thức rằng: cuộc đời không phải lúc nào cũng đem đến cho con người mọi lạc thú an vui và hạnh phúc, ngay chính đằng sau mọi lạc thú và hạnh phúc ấy đều sẵn có nỗi khổ đau vô thường rình rập họ. Ngài đã dạy các đệ tử rằng:
"Này các Tỳ-kheo! Có hai cực đoan mà người xuất gia không nên thực hành theo. Thế nào là hai ? Một là đắm say trong các dục (kàmesu), hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Tránh xa hai cực đoan này, này các Tỳ-kheo, là con đường Trung đạo do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn."(16)
Từ những kinh nghiệm cuộc sống sung túc xa hoa và lối sống tu hành ép xác khổ hạnh, Ngài đã phá bỏ hai con đường cực đoan ấy và tìm ra được một con đường mới, đó là con đường Trung đạo với lối sống tri túc, quân bình, đúng đắn và thích hợp qua hình ảnh Ngài tiếp nhận bát cơm đầy sữa của nàng Sujata. Chính con đường Trung đạo đã đưa đức Như Lai diệt tận mọi khổ đau, phiền não, vô minh và thành tựu thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Vậy thế nào là con đường Trung đạo? Đó chính là "con đường Thánh đạo tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đây là con đường Trung đạo, này các Tỳ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn."(17)

Sự chứng ngộ của Đức Phật là sự kiện bắt nguồn cho một trường phái tư tưởng mới, một tôn giáo mới, một khối kim cương pha lê của giác ngộ, vượt thoát khỏi mọi ràng buộc và chấp mắc ở đời. Trong ánh sáng chói lọi của sự giác ngộ, xuất hiện ra một hệ tư tưởng mới được hun đúc từ sự hoà hợp của những yếu tố tư tưởng cũ và mới, giải thích hiện tượng nhân sinh và thế giới quan về bản chất như thật của nó, phá vỡ tư tưởng Ngã và Ngã sở, nêu rõ con đường Trung đạo chấm dứt mọi phiền não khổ đau đưa đến sự an lạc giải thoát, và cuối cùng vượt hẳn lên mọi tri kiến lỗi thời để trở thành chân lý phổ quát bao trùm vạn vật.

2. BẰNG PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BÁT CHÁNH
Chuyển hóa tâm linh là một quá trình nổ lực tu tập liên tục theo thứ lớp bằng con đường Bát Chánh được biểu hiện qua 3 món Tam Vô Lậu: Giới, Định, Tuệ mà Ngài đã trải qua. Chỉ có con đường Bát Chánh mới có thể đưa con người diệt tận phiền não khổ đau, chấm dứt sanh tử luân hồi, đạt đến sự an lạc hạnh phúc, giải thoát giác ngộ. Và bằng phương pháp này, đức Phật đã chứng ngộ tâm linh thành tựu quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài đã khẳng định rõ ràng rằng: "Mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, Như Lai là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành." Điều này Ngài muốn nói rằng: Sự giác ngộ mà Đức Phật đã chứng được tại linh cội Bồ-đề cũng chính là quả giác ngộ của chúng ta trong tương lai nếu như chúng ta tu theo thứ lớp và đúng theo con đường Bát Chánh. Ngay tại đây, Đức Phật đã khéo để lại cho chúng ta bài học kinh nghiệm rằng: Trước khi tu tập tâm linh, hành giả phải tu tập Tuệ học bằng sự nhận thức đúng đắn về con đường Bát Chánh đưa con người đến sự diệt khổ và đạt được thắng trí giác ngộ Niết-bàn (Chánh kiến), đồng thời phải quán triệt thấu đáo như thật về bản chất của Ngã và Ngã sở (Chánh tư duy). Khi thấu triệt đúng đắn như thế, hành giả tiếp tục tu tập Định học bằng cách chuyên tâm tinh tấn tu trì một cách nhiệt tâm (Chánh tinh tấn) qua phương pháp chánh niệm tỉnh giác trong tứ oai nghi và tam nghiệp (Chánh niệm) với trạng thái tâm an tịnh, kiên cố và không thối chuyển (Chánh định). Với tâm kiên cố và thuần thục, hành giả thực hành Giới học được biểu lộ qua lối sống đạo đức (Chánh mạng), lời nói ôn hoà nhã nhặn khiêm tốn (Chánh ngữ), và việc làm đúng đắn của chính mình (Chánh nghiệp). Có như thế, con đường Bát Chánh mà chúng ta đang tu tập hầu mong mới có ngày đạt đến:
"Buộc tâm lấy Giới làm dây,
Lắng tâm lấy Định dựng xây đạo tràng,
Rõ tâm đuốc Tuệ soi đường,
Tâm không cảnh tịch Niết-bàn an vui."
Mặt khác, đối với giáo lý của đức Phật, Ngài không bao giờ khuyên chúng ta phải tin theo một cách hồ đồ và mù quáng; mà trái lại, Ngài căn dặn khi nghe Pháp và thực hành Pháp điều trước tiên phải tuân theo 3 bước cơ bản: Văn (lằng nghe hay học hỏi tường tận), TƯ (suy nghĩ chính xác), Tu (thực hành đúng cách và nghiêm túc). Ngài nhấn mạnh rằng giáo pháp của Ngài không phải chỉ đến để mà tin, ngược lại "đến để nghe," để suy nghĩ và cuối cùng là để tu tập. Điều này có nghĩa là bất cứ con người nào trước khi tu tập, họ cần phải thẩm đạt và thấu triệt rõ ràng về con đường mình đang tu tập đưa đến giá trị lợi lạc cho tâm linh hay không? Đó là điều cơ bản và cần thiết cho người học Phật hiểu rõ. Ngay cả đức Phật, trước khi vào thiền định tu tập về con đường Bát Chánh, Ngài cũng phải hiểu rõ về giá trị lợi lạc của con đường ấy ra sao trong khi tu tập. Qua ý nghĩa này, cho tới ngày nay chúng ta vẫn còn nghe vang vọng đâu đây lời nhắc nhở của các bậc Tôn đức trưởng lão đối với thế hệ trẻ Tăng Ni ngày nay: "Phàm tác sự tu tư duy chi hậu quả," có nghĩa là: Phàm làm việc gì phải suy nghĩ kỹ lưỡng hậu quả của nó về sau.

3. QUÁ TRÌNH CHUYỂN HOÁ TÂM LINH BẰNG SỰ KẾT HỢP THIỀN VÀ TUỆ THEO THỨ LỚP

Ngay khi tiếp nhận bát cơm đầy sữa của nàng Sujata và từ bỏ lối sống tu tập ép xác khổ hạnh, đức Phật đã tìm ra được con đường Trung đạo đưa đến sự an tịnh thắng trí bằng sự kết hợp Thiền và Tuệ. Suốt 49 ngày đêm ngồi trầm tư dưới cội Bồ-đề, tư tưởng Ngài không hề nảy sinh một chút giải đãi và biếng lười nào, tâm Ngài luôn an trú trong chánh niệm tỉnh giác qua từng hơi thở ra vào, kiên quyết diệt trừ những ảo tưởng tham ái vô minh phiền não ở nội tâm qua từng sát na, kết quả cuối cùng đưa đến cho Ngài với thân được khinh an, không dao động; tâm được định tỉnh và thuần nhất. Ngài bắt đầu tuần tự thể nhập vào trạng thái thiền định qua 4 giai đoạn, và chứng đắc Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.(18) Ngay tại đây, chúng ta thấy rằng tuy phương pháp hành thiền không phải là điểm cứu cánh tối hậu đưa đến sự giác ngộ, nó đóng một phần vai trò quan trọng cho hành giả bước đầu thực hiện quá trình tu tập thuần thục tâm. Do vậy, sau khi đức Phật đã điều phục tâm trở nên định tỉnh, không cấu uế, thoát ly mọi lậu hoặc, nhu nhuyến, dễ sử dụng, kiên cố, bất động; Ngài bắt đầu kết hợp với Tuệ giác của mình bằng cách hướng tâm hồi tưởng đến các tiền kiếp quá khứ và chứng được " Túc Mạng Trí " trong đêm canh đầu. Tiếp đó, Ngài hướng tâm đến "Sanh Tử Trí," thấu rõ về luật nhân quả về nghiệp mà chúng sanh đã tạo đưa đến kết quả tương xứng, và chứng đắc "Sanh Tử Trí "vào canh giữa đêm. Cuối cùng Ngài đột nhập vào tri kiến thứ ba, đó là tri kiến về " Khổ" và " Lậu Hoặc " qua Tứ Thánh Đế, Ngài chứng đắc " Lậu Tận Trí " vào đêm canh cuối. Và một tri kiến khởi lên trong Ngài: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa."(19)
Qua sự kiện chứng ngộ của đức Phật kéo dài suốt 3 canh (đầu, giữa và cuối), ta thấy rằng đức Phật luôn theo một tiến trình tuần tự trong quá trình tu tập chuyển hoá tâm linh bằng sự kết hợp Thiền và Tuệ. Đối với Ngài, các học Pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình lình. Điều này rất phù hợp với lời dạy của Ngài đã khẳng định trong Tiểu Bộ kinh:
"Ví như, này các Tỳ-kheo, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận h-ớng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm. Cũng vậy này các Tỳ-kheo, trong Pháp và Luật này các học Pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí, thình lình."(20)
Mặt khác, tiến trình giác ngộ của đức Phật luôn dựa trên Chánh Trí Tuệ làm nền tảng soi sáng tâm linh. Do vậy trong khi tu tập, Ngài luôn luôn để tâm hướng về Túc Mạng Trí, Sanh Tử Trí và Lậu Tận Trí làm kim chỉ nam trên bước đường tu tập hướng đến quả vị giải thoát giác ngộ. Điều này chứng tỏ rằng sự giác ngộ của Ngài không phải là trạng thái nằm ngoài tự thân, hay một vấn đề gì gọi là "xuất thần" cả, đó chính là một trạng thái chơn an lạc hạnh phúc tối cao kéo dài trong dài nhiều giờ dưới sự hỗ trợ của Tối Thắng Tri Kiến cực kỳ minh mẫn:
"Người tâm ý an tịnh; Lời an, nghiệp cũng an,
Chánh trí, chơn giải thoát; Tịnh lạc là vị ấy"(21)
Ngay tại đây, có lẽ chúng ta đã thừa hiểu được rằng: Bằng phương pháp gì đức Phật tu tập trong suốt qua trình chuyển hóa tâm linh hướng đến giác ngộ giải thoát?




III. PHẦN NHẬN ĐỊNH

Quá trình tu tập chuyển hoá tâm linh của đức Phật đưa đến sự chứng ngộ Vô thượng Bồ-đề là một bài học kinh nghiệm quý báu cho những ai muốn tầm cầu đạo giải thoát, an tịnh tâm linh. Chúng ta có thể nhận định như sau:
a - Quá trình của Phật được ghi lại như sau: "Dầu chỉ có da, gân hay xương còn lại, dầu thịt và máu có khô cạn trong thân, điều mà sự kiên trì của con người, sự tinh tấn của con người, sự nổ lực có thể đật được, nếu ch-a đạt được thời tinh tấn không có chấm dứt."(22) Hay trong kinh Pháp Cú 144 dạy rằng:
"Như ngựa hiền chạm roi; Hãy nhiệt tâm, hăng hái,
Với tín, giới, tinh tấn; Thiền định cùng trạch pháp,
Minh hạnh đủ, chánh niệm; Đoạn khổ này vô lượng"(23)
Nói cách khác, nếu sự giác ngộ của đức Phật là một quá trình tu tập lâu dài, thì hành giả hướng đến con đường giải thoát do Phật chỉ dạy phải luôn nổ lực tu tập liên tục tuần tự theo thứ lớp với tâm kiên cố, đạo niệm tinh chuyên theo con đường Bát Chánh đặt trên nền tảng Giới Định Tuệ.
b - Sự giác ngộ, giải thoát sẽ không đơm hoa kết trái một cách mỹ mãn cho những ai tu học vượt thứ bậc, hấp tấp, vội vã, cũng như không chuyên tu tập thiền định và thắng trí . Nó đòi hỏi hành giả phải tu tập theo thứ lớp với tâm định tỉnh và thuần nhất trong khi thiền định và tuệ quán qua con đường Bát Chánh:
"Ai sống một trăm năm; Ác tuệ, không thiền định,
Tốt hơn sống một ngày; Có tuệ tu thiền định."(24)
c - Sự giác ngộ của Ngài luôn dựa trên quá trình tổng hợp giữa Thiền và Tuệ. Vì sao? Vì Thiền và Tuệ như là đôi chân của hành giả đang trên đường tu tập giải thoát giác ngộ, nếu thiếu một trong hai thì quả vị Vô thượng Bồ-đề khó mà đạt được. Cũng vậy, nếu người nào tu tập thiền định mà không có sự hỗ trợ của Tuệ, Định đó sẽ trở thành Tà Định. Và ngược lại, nếu người tu tập Tuệ mà không có sự Thiền Định, Tuệ đó trở thành Tà Tuệ (Tà kiến). Do đó, người tu thiền luôn dựa trên sự tổng hợp giữa Thiền và Tuệ làm căn bản hầu mới đạt được thắng trí giác ngộ Niết-bàn:
"Tu thiền, trí tuệ sanh; Bỏ thiền, trí tuệ diệt,
Biết con đường hai ngả; Đưa đến hữu, phi hữu,
Hãy tự mình nổ lực; Khiến trí tuệ tăng trưởng."(25)
d - Sự giác ngộ của Ngài là một quá trình "chuyển mê khai ngộ," từ tư tưởng tiêu cực trở nên tích cực, từ tâm khổ đau phiền não hướng đến tâm an lạc giải thoát bằng sự nổ lực tự thân. Ở đây, Ngài muốn cho chúng ta thấy rõ rằng: sự chứng ngộ của Ngài là một quá trình nổ lực tự thân đúc kết từ những kinh nghiệm tu tập cũ của bản thân mà không nhờ một quyền năng bên ngoài nào hỗ trợ:
"Tự mình y chỉ mình; Tự mình đi đến mình,
Vậy hãy tự điều phục; Như khách buôn ngựa hiền."(26)
Đồng thời, khẳng định được sự chứng ngộ của Ngài không phải đạt được từ một điều gì mới mẻ cao xa, mà là sự chuyển hoá bản u mê và vô minh trở thành tuệ giác và tỉnh thức. Mặt khác, quá trình chuyển hoá tâm linh là một quá trình tu tập "phản bổn hườn nguyên" hay "hồi quang tự kỷ" để làm cho con người quay trở về với bản tâm thanh tịnh vốn có của chính mình mà bấy lâu bị màng vô minh vọng tưởng điên đảo che lấp. Đức Phật, Ngài đã ví dụ "bản tâm thanh tịnh" ban đầu của con người như một đạo lộ cũ, một con đường cũ, một cổ thành cũ đã bị lãng quên và nay đã được trở về với cổ thành xưa đó. Ngài dạy:
"Các ngươi nên biết, trong khi đi ngang một khu rừng, một chặn núi, tôi thấy được một con đường cũ, một đạo lộ cũ do những người xưa đã từng đi qua. Tôi đã đi theo con đường ấy và thấy được một cổ thành, một cố đô do người xưa ở, với đầy đủ vườn tược, đầy đủ rừng cây, đầy đủ hồ ao, với thành lũy đẹp đẽ. Thưa các Tôn giả, hãy xây dựng lại ngôi thành ấy"(27).
Quả thật, đạo Giác ngộ của Ngài luôn là vầng dương trí tuệ xua tan màn đêm vô minh phiền não đem lại ánh sáng an lạc hạnh phúc cho muôn loài, là thuyền từ bát-nhã đưa chúng sanh thoát khỏi biển ái sông mê, là con đường chân lý tối hậu đưa thế nhân đến quả vị cứu cánh Vô thượng Bồ-đề. Giáo pháp của Ngài thật sự:
"Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp; Bá thiên vạn kiếp nan tư ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì; Nguyện giải Như Lai chơn thật nghĩa."


Cầu chúc quí vị vô lượng an lạc, vô lượng kiết tường, và mau sớm chứng ngộ Phật tâm của chính mình trên lộ trình tu học đạo giải thoát giác ngộ của Đấng từ phụ Thích Ca Mâu Ni.